Phật giáo là một tôn giáo, về mặt triết học nó là những tư tưởng, giáo lý, giải thích các hiện tượng xung quanh về tự nhiên, tâm linh, xã hội,…Mặc dù cùng chung xuất phát điểm, nhưng trong quá trình phát triển, lại chia thành nhiều trường phái khác nhau. Bài viết hôm nay, chúng ta hãy cùng nhau phân biệt Phật giáo Nam tông - Bắc tông khác nhau như thế nào? các bạn nhé!

Vấn đề của Nam Tông và Bắc Tông là gì ?

Trước đây, những người theo Đại thừa thường cho rằng giáo lý Nguyên thủy, cũng là giáo lý Tiểu thừa, không dẫn đến quả vị tối hậu của Phật. Họ chỉ tin rằng giáo lý Đại thừa mới là chân chính và đúng đắn. Trái lại, các nhà sư Tiểu thừa cho rằng giáo lý Tiểu thừa mới là nguyên thủy và đúng đắn, còn giáo lý Đại thừa đã mất đi tính nguyên bản và chân thực của lời dạy của Đức Phật. Sự khác biệt quan điểm này đã làm cho mối quan hệ giữa hai truyền thống lạnh lùng trong suốt hàng nghìn năm. ( Nguồn wikipedia : Vấn đề Đại Thừa và Tiểu Thừa )

Vì sao phật giáo nam tông ăn mặn ?

Một trong những lý do khiến Phật giáo Nam tông được coi là “ăn mặn” là vì tôn giáo này không có sự can thiệp của nhà nước và không có các quy tắc nghiêm ngặt trong việc tu tập. Điều này cho phép các đạo sĩ của Phật giáo Nam tông có tự do trong việc tu học và tu tập theo đúng con đường mà họ lựa chọn.

Sự phân chia trường phái Phật giáo hình thành khi nào ?

Ngay từ thời kỳ đầu, Phật giáo đã hình thành 2 phái lớn là Đại chúng bộ và Thượng Tọa Trưởng Lão bộ. Tại Đại hội tập kết kinh điển lần thứ II, phái Đại chúng bộ chủ trương, sử dụng Kinh – Luật - Luận để hành đạo. Còn phái  Thượng Tọa Trưởng Lão bộ chủ trương bảo thủ Kinh – Luật - Luận trong hành đạo.

Biểu đồ trên là cơ sở của Bộ phái Phật giáo, dù phân thành Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ, nhưng tất cả hai mặt đều đặt nền tảng căn bản trên giáo lý của đức Phật.

Hai phái hình thành chính thức, nhưng chưa có danh xưng trong Đại hội tập kết kinh điển lần thứ IV. Sau đó, khi phái Đại chúng bộ phát triển, thì Phật giáo mới sử dụng tên Tiểu thừa, thay cho phái Thượng Tọa Trưởng Lão bộ và Đại thừa, thay cho phái Đại chúng bộ.

Phật giáo Tiểu thừa đa số truyền đến phía Nam nên được gọi là Phật giáo Nam tông (hay có tên gọi khác là Phật giáo nguyên thủy). Phái Đại thừa hầu như truyền đến các nước ở phía Bắc nên được gọi là Phật giáo Bắc tông.

Sự phân chia 2 trường phái Phật giáo Bắc Tông và Nam Tông

Ngay từ thời kỳ đầu khi hình thành Phật giáo, Phật giáo đã được chia thành 2 phái lớn là Đại chúng bộ và Thượng Tọa Trưởng Lão bộ. Phái Đại chúng bộ đã có chủ trương sử dụng Kinh – Luật – Luận để hành đạo tại Đại hội tập kết kinh điển lần thứ II. Về phía phái Thượng Tọa Trưởng Lão bộ, họ có chủ trương bảo thủ Kinh – Luật – Luận khi hành đạo.

Cho đến đại hội tập kết kinh điển lần thứ IV, 2 phái này vẫn chưa có danh xưng và chưa được hình thành chính thức. Sau đó, phái Đại chúng bộ dần dần phát triển. Từ đó, Phật giáo sử dụng tên Tiểu Thừa thay cho phái Thượng Tọa Trưởng Lão bộ và phái Đại chúng bộ thì sử dụng tên Đại Thừa.

Phật giáo Bắc tông hay còn gọi là Đại thừa Phật giáo, là một trong hai tông phái chính của Phật giáo. Tông phái này ra đời vào khoảng thế kỷ thứ 1 sau Công nguyên tại Ấn Độ và phát triển mạnh mẽ ở Trung Quốc. Sau đó, Phật giáo Bắc tông lan rộng đến nhiều quốc gia ở Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam.

Phật giáo Bắc tông chủ trương tu tập theo con đường Bồ Tát, tức là phát nguyện cứu độ tất cả chúng sinh, không chỉ riêng bản thân mình. Bồ tát là người có lòng từ bi rộng lớn, luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác và tìm cách giải thoát cho tất cả chúng sinh khỏi vòng luân hồi sinh tử. Điều này được thể hiện qua việc các đạo sĩ của Phật giáo Bắc tông thường tu tập và hành thiền để rèn luyện lòng từ bi và giúp đỡ những người khác trong cuộc sống.

Phật giáo phái Nam tông còn gọi khác là Tiểu Thừa phật giáo hoặc Nguyên thủy Phật giáo, là một trong hai tông phái chính của Phật giáo. Tông phái này ra đời vào khoảng thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên tại Ấn Độ và phát triển mạnh mẽ ở các nước Đông Nam Á như Thái Lan, Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam.

Phật giáo Nam tông chủ trương tu tập theo con đường Thanh Văn, tức là phát nguyện giải thoát cho bản thân mình khỏi vòng luân hồi sinh tử. Điều này được thể hiện qua việc các đạo sĩ của đạo phật Nam tông thường tập trung vào việc tu học và tu tập để giải thoát cho bản thân mình khỏi sự gắn bó với cuộc sống và vòng luân hồi.

Xem thêm : Đông Bình Tây Quả là gì? Nguồn gốc, ý nghĩa và ứng dụng

Phân biệt 2 dòng Phật giáo Nam Tông và Bắc Tông ở Việt Nam

Tại Việt Nam, 2 dòng Phật giáo Nam Tông và Bắc Tông đều du nhập và phát triển mạnh mẽ. Điểm khác biệt dễ thấy nhất chính là về việc bài trí tượng thờ của các chùa thuộc hệ Phật giáo Bắc Tông và Nam Tông. Đối với chùa thuộc phái Bắc Tông, họ sẽ đặt tượng Phật Thích Ca ở vị trí trung tâm của chính điện. Ngoài ra, họ còn thờ thêm các vị thần linh, Bồ Tát, La hán và các vị thuộc Lão giáo và Khổng giáo.

Bộ Tam Thế Phật chính là bộ tượng thờ vô cùng phổ biến tại các chùa của nước ta. Bộ Tam Thế Phật bao gồm có 3 vị A Di Đà là hình tượng cho các vị Phật trong quá khứ, Phật Thích Ca Mâu Ni là tượng trưng cho vị Phật của hiện tại và Di Lặc Tôn vương Phật là tượng trưng cho vị Phật thuộc thời vị lai.

Trong ngôi chùa Nam Tông của người Việt, họ chỉ thờ duy nhất Phật Thích Ca với nhiều kiểu loại khác nhau, có thể ví dụ như tượng Phật Thích Ca sơ sinh hay còn gọi là tượng Cửu Long, tượng đi bát khất thực, tượng ngồi thiền định, tượng niết bàn, tượng ngồi trên mình rắn naga, tượng ngồi đất chứng giám…

Xem thêm : Khảm Ngũ Sắc là gì? Quy trình tạo ra khảm ngũ sắc

Tại sao có sự phân chia trường phái Phật giáo?

Sự phân chia các trường phái Phật giáo không phải nguyên do tranh giành về quyền lợi, địa vị hay mâu thuẫn về tổ chức. Mà do sự khác nhau về kinh điển, giáo thuyết. Phật Thích Ca thuyết giảng về những điều đơn giản trong việc tiếp cận, giáo hóa, nhưng về sau này các bài thuyết giảng ngày được nâng cao hơn. Trong giai đoạn mới ra đời, Phật giáo còn nhiều sự hiểu khác nhau về giáo pháp. Nên trong quá trình hình thành và phát triển của Phật giáo, nhất là trong trường phái Phật giáo Bắc tông từ chủ trương tùy duyên chúng sinh mà hành hóa càng là cơ sở để hình thành pháp môn tu hành.

Phật giáo nguyên thủy là nam tông hay bắc tông ?

Không có câu trả lời chính xác cho câu hỏi này vì Phật giáo nguyên thủy không chỉ thuộc về một tông phái cụ thể. Trong quá trình lan truyền và phát triển, Phật giáo đã chia thành nhiều tông phái khác nhau, trong đó có Phật giáo Nam tông và Bắc tông.

Tuy nhiên, có thể nói rằng Phật giáo nguyên thủy có những đặc điểm chung của cả hai tông phái này, bao gồm việc tôn trọng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và các vị thánh, tập trung vào việc tu học và tu tập để giải thoát khỏi vòng luân hồi và rèn luyện lòng từ bi và giúp đỡ người khác.

Phật giáo Nam tông và Bắc tông khác nhau thế nào

Một số điểm khác nhau giữa 2 dòng Phật giáo Nam Tông và Bắc Tông có thể liệt kê sau đây:

Điểm khác biệt cơ bản nhất giữa 2 dòng Phật giáo Nam Tông và Bắc Tông làm về giáo thuyết của họ. Giáo thuyết của Phật giáo Nam Tông là thuyết Hữu và Vô, hay còn gọi dễ hiểu hơn là có và không. Chủ trương lớn nhất của Phật giáo Nam Tông là hữu luận hay chấp hữu và pháp vô thường. Nói một cách đơn giản hơn là mọi thứ xung quanh luôn biến đổi và chuyển động những vẫn có một cách tương đối mà không thể nói là không.

Trái ngược với việc này, Phật giáo Bắc Tông lại cho rằng không luận hay chấp không, nghĩa là vạn pháp tuy có, nhưng kỳ thực lại là không và nói chung là vạn pháp chỉ là hư giả.

Phật giáo Nam Tông được truyền bá từ Ấn Độ đến các nước thuộc khu vực phía Nam. Tuy nhiên, khi Phật giáo Nam Tông được truyền đến nước ta, nó đã đi qua rất nhiều nước và chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đạo Bà la môn nên Phật giáo Nam Tông ở một số nước như Thái Lan, lào, Campuchia có sự tiếp thu mạnh mẽ của văn hóa Ấn Độ. Dơ đó, ở một số nước theo Phật giáo Nam Tông, số lượng các tín đồ Phật giáo vô cùng đông đảo và trở thành gốc của văn hóa nước đó.

Phật giáo Bắc Tông thì truyền đến các nước phía bắc đi qua con đường Trung Quốc và đến những quốc gia như miền Bắc Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản nên chịu ảnh hưởng vô cùng lớn bởi văn hóa Nho giáo và Lão giáo của Trung Quốc. Do vậy, các nước theo Phật giáo Bắc Tông thường chịu ảnh hưởng của Phật giáo ở nhiều mức độ khác nhau.

Quan niệm về sinh tử luân hồi và niết bàn chính là 2 phạm trù khác biệt nhau mà Phật giáo Nam Tông quan niệm. Quan niệm này có nghĩa là chỉ khi nào thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử thì mới có thể chứng ngộ được niết bàn một cách tuyệt đối. Khi bàn về sự giải thoát, Phật giáo Nam Tông có chủ trương tự độ tự giác, nghĩa là những người theo Phật giáo Nam Tông phải tự giác ngộ cũng như có thể tự giải thoát cho bản thân mình mà không thể nào tự giải thoát hay giác ngộ cho người khác.

Còn Phật giáo Bắc Tông khi nói đến quan điểm sinh tử luân hồi và nhét bàn thì lại cho rằng đây là 2 phạm trù luôn luôn tồn tại và gần gũi với nhau. Nếu một người tu dưỡng tốt thì cảnh giới được niết bàn vì sinh tử tức niết bàn, phiền não tức bồ đề. Chủ trương chủ yếu của Phật giáo Bắc Tông là tự độ tự tha, tự giác tự tha. Quan điểm này, dịch nôm na có nghĩa là những người nào theo Phật giáo Bắc Tông không chỉ giác ngộ giải thoát cho chính bản thân mình mà còn có thể giải thoát cho chúng sinh.

Đây cũng là lý do mà phái Nam Tông chỉ được ví là cỗ xe nhỏ chở được ít người, còn Bắc Tông lại được ví là cỗ xe to chở được nhiều người.

Đối với Phật giáo Nam Tông, phái này chỉ thờ duy nhất một tượng Phật Thích Ca cùng với các vị A La Hán. Đối với Phật giáo Bắc Tông, ngoài việc họ thờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, họ còn thờ thêm nhiều tượng Phật và cả tượng Bồ Tát. Quan điểm thờ phụng có sự khác nhau như vậy là bởi:

Trong quan niệm của Phật giáo Nam Tông, họ cho rằng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng là một con người bình thường giống như những con người bình thường khác. Ngài vẫn có những nhu cầu đời sống như thông thường và cũng phải chịu một định luật vô thường là trải qua những nỗi thống khổ sinh, lão, bệnh, tử. Điểm khác biệt nhất của ngài đối với người thường là ngài đã hoàn toàn giác ngộ do nỗ lực tu hành mà thành đạt được đạo quả.

Ngoài Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra, phái Nam Tông không thờ phụng bất kỳ một vị Phật nào khác. Đó cũng là lý do mà Đức Phật Thích Ca được tạc tượng cần giống như người Ấn Độ.

Còn đối với quan niệm của Phật giáo Bắc Tông, Đức Phật Thích Ca khác với người thường. Đức Phật sẽ luôn độ chúng sinh nên sẽ thị hiện ở những nơi loài người tiện về giáo hóa. Còn đối với các vị Bồ Tát, Phật giáo Bắc Tông cho rằng Bồ Tát chính là một người trợ lực cùng với chư Phật phù hộ chúng sinh, mỗi vị lại có những công hạnh vô cùng đặc biệt. Tại chùa của phái Phật giáo Bắc Tông, hình tượng Phật Thích Ca Mâu Ni khi tạc có những giống người bản địa vì họ cho rằng như vậy mới là Phật giáo của địa phương, thể hiện sự gần gũi, dễ cảm hóa.

Về Phật giáo Nam Tông, phái này nhấn mạnh sự mạnh mẽ tự giải phóng thông qua sự cố gắng, nỗ lực của chính bản thân mình. Để có thể đạt được giác ngộ, phương tiện chính chính là thiền và tu viện được coi là vô cùng quan trọng. Đa số các nhà sư của phái Phật giáo Nam Tông thường dành hầu hết thời gian trong ngày trong tu viện với sắc phục màu vàng và đi khất thực để sinh sống.

Tuy nhiên, Phật giáo Bắc Tông thì lại phải tự do lao động để sinh sống thường ngày. Chỉ khi nào hành dễ, họ mới mặc đạo phục màu vàng và trong những ngày thường thì sắc phục của họ là áo màu nâu.

Phật giáo Bắc Tông quy định, khi ăn chay phải tuyệt đối không được ăn những đồ có máu, có sinh mạng và nếu đã ăn chay thì phải duy trì trường kỳ trong suốt quãng đời tu hành.

Đối với Phật giáo Nam Tông, các nhà sư đều phải đi khất thực vào mỗi buổi sáng. Họ sẽ ăn bất cứ những gì mà Phật tử cúng, ngay kể cả đồ mặn, miễn là không biết vì mình mà sát sinh và không vì mình mà sát sinh. Bữa chính của họ là vào 12 giờ trưa mỗi ngày và sau đó thì chỉ dùng đồ nhẹ.

Mặc dù giữa 2 dòng Phật giáo Nam Tông và Bắc Tông có khá nhiều điểm khác biệt nhưng 2 phái này cũng có những điều giống nhau khá cơ bản như cùng bắt nguồn từ đức Phật và cùng tôn kính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Tuy nhiên, qua thời gian, Phật giáo Bắc Tông và Phật giáo Nam Tông cũng đã hình thành nên nhiều tông phái nhỏ hơn nữa.

Bảng so sánh thu gọn của 2 phái Bắc Tông và Nam Tông