Theo Bộ Công an, Cơ quan Cảnh sát điều tra (Phòng PC02) Công an tỉnh Kiên Giang đang thụ lý điều tra vụ án “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”, xảy ra trong thời gian từ tháng 7/2023 đến tháng 02/2024.

Mạo danh nhân viên giao hàng để lừa đảo

Theo Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB), các đối tượng lừa đảo sẽ thu thập thông tin khách hàng qua nhiều kênh thông tin người đặt hàng từ các phần mềm, trang thương mại điện tử; tin nhắn đặt mua hàng trên livestream…

Khi thu thập được thông tin người mua và đơn hàng, đối tượng lừa đảo sẽ chọn thời điểm khách hàng không ở nhà (thường vào giờ hành chính) để gọi điện thoại, giả danh là nhân viên giao hàng hoặc nhân viên giao vận.

Sau đó, nếu khách hàng cho biết không có mặt tại nhà, đối tượng sẽ nói gửi lại sản phẩm và yêu cầu khách hàng chuyển tiền thanh toán đơn hàng.

Thậm chí, đối tượng lừa đảo còn dùng thủ đoạn thúc ép người mua hàng chuyển khoản ngay nếu không đơn hàng sẽ bị hủy.

Sau khi khách hàng chuyển khoản, đối tượng sẽ gọi lại và thông báo khách hàng đã chuyển nhầm tiền vào tài khoản đăng ký thẻ hội viên shipper của đơn vị giao hàng.

Đối tượng cho biết tài khoản này sẽ tự động trừ 3.500.000 đồng mỗi tháng và yêu cầu khách hàng click vào đường link hoặc nhập thông tin để hủy kích hoạt gói cước hội viên.

Thấy nạn nhân có yêu cầu muốn lấy lại tiền và hủy đăng ký thành viên, đối tượng lừa đảo sẽ gửi tin nhắn chứa đường link dẫn đến trang web giả mạo của đơn vị giao hàng để yêu cầu nhập thông tin cá nhân và tài khoản ngân hàng, mã OTP.

Nếu bấm vào đường liên kết giả mạo và nhập các thông tin cá nhân thì người dùng có nguy cơ bị mất quyền kiểm soát tài khoản ngân hàng, tài khoản ví điện tử, tài khoản chứng khoán... do điện thoại bị nhiễm mã độc. Từ đó, các đối tượng lừa đảo thực hiện các giao dịch chuyển tiền từ tài khoản của khách hàng sang tài khoản lừa đảo.

Bị lừa đảo nhân viên nhập liệu, lấy lại tiền được không?

Số tiền mà mỗi người bị lừa trong trường hợp này thường không quá lớn nhưng các công ty lừa đảo vẫn thu được rất nhiều tiền bất hợp pháp do lừa được rất nhiều người.

Để lấy lại tiền, đồng thời khiến cho những đối tượng lừa đảo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, nạn nhân có thể trình báo tin này cho cơ quan Công an theo các hình thức sau:

- Đến trực tiếp cơ quan Công an xã, phường nơi mình cư trú với đơn tố cáo, chứng cứ chứng minh việc mình bị lừa đảo,…

- Tin báo về tội phạm lừa đảo thông qua đường dây nóng của cơ quan Công an: Hotline 069.219.4053 của Phòng An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao; tại Hà Nội, có thể gọi đến số 113; tại TP. Hồ Chí Minh có thể gọi về đường dây nóng 02838.413.744 hoặc 0693.187.680…

Về mức phạt dành cho các đối tượng lừa đảo, những người này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Điều 174 Bộ luật Hình sự:

Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Trên đây là những thông tin quan trọng liên quan đến vấn đề lừa đảo nhân viên nhập liệu. Nếu vẫn còn vấn đề vướng mắc, bạn đọc vui lòng liên hệ tồng đài 1900.6192 để được tư vấn, hỗ trợ giải đáp.

Tháng 8/2022, LuatVietnam triển khai chuyên đề pháp luật Lừa đảo qua mạng, giúp cộng đồng nêu cao tinh thần cảnh giác đối với các hành vi lừa đảo trên môi trường mạng hiện nay. Xem chi tiết

Chị Đống Thị Mỹ Lanh, nhân viên lễ tân Công ty CP Tập đoàn Toàn Cầu Xanh (quận 3-TPHCM), gửi đơn khiếu nại đến các cơ quan chức năng TPHCM về việc “phải chung chi” khi xin việc. Chị Lanh cho biết đã bị ông Nguyễn Nhật Tuấn, giám đốc hành chính nhân sự pháp chế của công ty, buộc phải đưa 10 triệu đồng nếu muốn vào làm việc tại công ty.

Tháng 8-2011, qua một người quen, chị Lanh biết ông Nguyễn Nhật Tuấn và công ty nơi ông Tuấn làm việc đang tuyển nhân viên lễ tân. Người quen này nói với chị Lanh “muốn được tuyển dụng phải đưa cho ông Tuấn 10 triệu đồng để ông lo lót cho ban lãnh đạo công ty”.

Để có được việc làm, chị Lanh phải vay mượn khắp nơi mới đủ số tiền 10 triệu đồng. Sau đó, chị Lanh đã nhờ người quen này đưa tiền cho ông Tuấn. Sau khi nhận được tiền, ông Tuấn mời chị Lanh đến phỏng vấn để tuyển vào vị trí lễ tân. Đến ngày 5-9-2011, chị Lanh được làm việc chính thức tại công ty. Lúc này, chị biết việc nhận tiền là chủ trương của ông Tuấn nên làm đơn khiếu nại gửi công ty và các cơ quan chức năng.

Tương tự, anh Đặng Thanh Sơn, ngụ ở quận 9-TPHCM, cũng bị ông Tuấn buộc phải đưa 10 triệu đồng khi vào làm việc. Theo đơn khiếu nại của anh Sơn, qua một người quen, anh Sơn đã gửi hồ sơ xin việc cho ông Tuấn. Tiếp đó, anh Sơn được ông Tuấn mời đến phỏng vấn để làm việc ở vị trí cửa hàng trưởng. “Sau buổi phỏng vấn, ông Tuấn có gợi ý với tôi rằng để vào làm việc, tôi phải chi tiền bồi dưỡng cho 5 vị lãnh đạo công ty. Mặc dù đang rất khó khăn nhưng vì cần việc làm, tôi đã vay mượn bạn bè để có đủ 10 triệu đồng đưa cho ông Tuấn. Tuy nhiên, sau đó, tôi biết đây chỉ là đòi hỏi của ông Tuấn nên yêu cầu trả tiền lại nhưng không được giải quyết”- anh Sơn nói.

Có nhận nhưng không trả lại!

Để làm rõ vụ việc, chúng tôi đã liên lạc với ông Nguyễn Nhật Tuấn. Ông Tuấn thừa nhận có nhận “bồi dưỡng” từ chị Lanh nhưng phủ nhận trường hợp của anh Sơn. Ông Tuấn cho biết, nếu chị Lanh yêu cầu thì ông sẽ trả lại tiền.

Ông Nguyễn Văn Thành, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty CP Tập đoàn Toàn Cầu Xanh, khẳng định công ty không hề có chủ trương nhận tiền của nhân viên. Ông Tuấn đã lợi dụng danh nghĩa công ty để trục lợi. Đây là hành vi trái pháp luật và quy định của công ty.

Ông Thành cho biết ông Tuấn làm việc cho công ty từ ngày 5-6-2011 với vị trí giám đốc hành chính nhân sự pháp chế. Tháng 11-2011, khi phát hiện vụ việc, công ty đã mời ông Tuấn lên làm việc. Ông Tuấn thừa nhận việc làm sai trái của mình nên công ty ra quyết định chấm dứt hợp đồng lao động vào ngày 15-1-2012. “Sau đó, tôi đã nhiều lần liên lạc mời ông Tuấn đến công ty giải quyết vụ việc nhưng ông Tuấn không phản hồi. Ngày 12-4-2012, công ty có thư gửi đến nơi cư trú của ông Tuấn mời lên làm việc nhưng không thấy trả lời. Do ông Tuấn bất hợp tác, không chịu khắc phục hậu quả của hành vi sai phạm nên chúng tôi đề nghị cơ quan chức năng điều tra và công khai sự việc để làm rõ tính minh bạch cho công ty cũng như trả lại số tiền mà ông Tuấn đã nhận của đương sự”- ông Thành khẳng định như vậy.

Luật sư Nguyễn Văn Hậu, Phó Chủ tịch Hội Luật gia TPHCM:

Có dấu hiệu của tội nhận hối lộ

Người lao động đã khó khăn, cần việc làm, thế mà còn bị đòi hỏi phải đưa tiền mới nhận vào làm việc. Điều này là vô đạo đức, không thể chấp nhận. Hành vi của ông Tuấn có dấu hiệu của tội nhận hối lộ theo quy định của Bộ Luật Hình sự. Người lao động có thể gửi đơn tố cáo đến cơ quan công an để nơi đây, làm rõ vụ việc.